Sự khác biệt giữa Cổ phiếu có mệnh giá so với cổ phiếu không có mệnh giá

Reviewsantot.com – Một cổ phiếu trong một công ty có thể có mệnh giá hoặc không có mệnh giá. Những danh mục này gần như là một sự kỳ lạ trong lịch sử và không liên quan gì đến giá cổ phiếu trên thị trường.

Mệnh giá hoặc mệnh giá là giá trị được nêu trên mỗi cổ phiếu. Giá này đã được in trên chứng chỉ chứng khoán giấy trước khi chúng trở nên lỗi thời đối với các phiên bản điện tử mới hơn. Nếu một công ty không đặt mệnh giá, chứng chỉ của công ty đó sẽ được phát hành dưới dạng cổ phiếu không có mệnh giá.

Đáng chú ý, mệnh giá của một trái phiếu là khác nhau, đề cập đến mệnh giá của nó hoặc giá trị đầy đủ khi đáo hạn.

su-khac-biet-giua-co-phieu-co-menh-gia-so-voi-co-phieu-khong-co-menh-gia-reviewsantot

Mệnh giá cổ phiếu

Ý nghĩa của mệnh giá cổ phiếu

Các công ty bán cổ phiếu như một phương tiện tạo ra vốn cổ phần. Do đó, mệnh giá nhân với tổng số cổ phiếu phát hành là lượng vốn tối thiểu sẽ được tạo ra nếu công ty bán toàn bộ cổ phiếu. Mệnh giá được in ở mặt trước của phiên bản cũ, chứng chỉ cổ phiếu bằng giấy và thường có sẵn ở dạng kỹ thuật số ngày nay.

Trên thực tế, vì luật pháp tiểu bang yêu cầu các công ty đặt mệnh giá cho cổ phiếu của mình nên họ chọn giá trị nhỏ nhất có thể, thường là một xu. Mức giá xu này là do mệnh giá của một cổ phiếu tạo thành một hợp đồng hai chiều ràng buộc giữa công ty và cổ đông.

Trách nhiệm cổ đông liên quan đến mệnh giá

Nếu cổ đông trả ít hơn mệnh giá một cổ phiếu và sau đó công ty phát hành không thể đáp ứng các nghĩa vụ tài chính thì chủ nợ không thể kiện cổ đông về khoản chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá để thu hồi khoản nợ chưa thanh toán. 

Điều này là do công ty bị giới hạn bởi cổ phần có tư cách pháp nhân riêng biệt với tư cách pháp nhân của chủ sở hữu (cổ đông). Trách nhiệm của một cổ đông đối với các khoản nợ của công ty thường chỉ giới hạn ở số tiền, nếu có, vẫn chưa được thanh toán trên cổ phiếu của cổ đông đó.

Mặt khác, nếu giá thị trường của cổ phiếu giảm xuống dưới mệnh giá, công ty có thể phải chịu trách nhiệm trước cổ đông về khoản chênh lệch. Hầu hết các công ty đều chọn đặt mệnh giá tối thiểu cho cổ phiếu của họ để tránh tình huống này.

Cổ phiếu không có mệnh giá

Ở một số bang, luật pháp yêu cầu các công ty phải đặt giá trị mệnh giá cho cổ phiếu của họ.

Nếu không, họ có thể chọn phát hành cổ phiếu “không mệnh giá”.

Trạng thái “không ngang giá” này có nghĩa là công ty chưa ấn định giá trị tối thiểu cho cổ phiếu của mình. Cổ phiếu không có mệnh giá không mang các nghĩa vụ pháp lý về phát hành mệnh giá vì không có giá trị cơ bản trên mỗi cổ phiếu. 

Tuy nhiên, vì các công ty chỉ định mệnh giá tối thiểu nếu cần, nên có rất ít sự khác biệt thực tế giữa cổ phiếu có mệnh giá và cổ phiếu không có mệnh giá.

Có một số lý do khiến một công ty chọn phát hành cổ phiếu không mệnh giá:

  • Công ty kém linh hoạt hơn trong việc định giá cho các đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng trong tương lai nếu công ty đặt mệnh giá cổ phiếu quá cao.
  • Công ty muốn tránh các khoản nợ tiềm ẩn đối với các cổ đông nếu giá trị thị trường của cổ phiếu giảm xuống dưới mệnh giá.
  • Công ty muốn tránh việc định giá sai có thể xảy ra. Giá trị cổ phiếu hoặc giá thị trường thường sẽ khác xa so với mệnh giá.
  • Công ty muốn có một cơ cấu kế toán ít phức tạp hơn để báo cáo vì việc phát hành cổ phiếu không mệnh giá chỉ yêu cầu sử dụng một tài khoản sổ cái chung.

Những cân nhắc đặc biệt

Trong hầu hết các trường hợp, mệnh giá cổ phiếu ngày nay không chỉ là vấn đề kế toán mà còn là vấn đề tương đối nhỏ.

Hiệu quả tài chính duy nhất của việc phát hành không có mệnh giá là bất kỳ nguồn vốn cổ phần nào được tạo ra từ việc bán cổ phiếu không có mệnh giá đều được ghi có vào tài khoản cổ phiếu phổ thông. Ngược lại, tiền từ việc bán cổ phiếu mệnh giá được phân chia giữa tài khoản cổ phiếu phổ thông và tài khoản vốn góp.

Mệnh giá của một cổ phiếu có thể đã trở thành một điều kỳ lạ trong lịch sử, nhưng điều này không đúng với trái phiếu. Trái phiếu là chứng khoán có thu nhập cố định do các tập đoàn và cơ quan chính phủ phát hành để huy động vốn. Một trái phiếu có mệnh giá 1.000 USD thực sự có thể được mua lại với giá 1.000 USD khi đáo hạn.

Ví dụ về cổ phiếu mệnh giá so với cổ phiếu không có mệnh giá

Ghi sổ kế toán cho phát hành cổ phiếu với mệnh giá và không có mệnh giá

Hãy tưởng tượng một công ty phát hành 100.000 cổ phiếu với giá 15 USD/cổ phiếu. Công ty đã quyết định phát hành cổ phiếu không mệnh giá. Là một phần của việc bán, công ty đã nhận được 1,5 triệu USD (100.000 cổ phiếu * 15 USD/cổ phiếu). 

Việc ghi sổ kế toán cho việc bán hàng dẫn đến việc ghi nợ vào số tiền mặt nhận được. Phần vốn chủ sở hữu của công ty trong bảng cân đối kế toán cũng tăng lên. Vì cổ phiếu không có mệnh giá được phát hành nên chỉ sử dụng tài khoản cổ phiếu phổ thông.

  • Ghi nợ: Tiền mặt, 1.500.000 USD
  • Tín dụng: Cổ phiếu phổ thông $1.500.000

Bây giờ, giả sử công ty quyết định phát hành 100.000 cổ phiếu tương tự với mệnh giá là 1 USD/cổ phiếu. Vì mệnh giá và không có mệnh giá thường không ảnh hưởng đến giá thị trường nên công ty vẫn nhận được 15 USD/cổ phiếu. 

Ghi sổ kế toán cho thu nhập vượt quá mệnh giá cổ phiếu

Mục kế toán dẫn đến cùng một khoản ghi nợ bằng tiền mặt, nhưng công ty hiện phải ghi hai khoản ghi có: một cho mệnh giá của cổ phiếu và một cho số tiền thu được vượt quá lớn hơn mệnh giá. Tài khoản được sử dụng cho số tiền thu được lớn hơn mệnh giá được gọi là “Vốn thanh toán bổ sung”.

Tài khoản cổ phiếu phổ thông được ghi có cho số mệnh giá nhận được. Trong ví dụ này, công ty đã nhận được số tiền thu được là 100.000 USD (100.000 cổ phiếu phát hành với giá 1 USD/mệnh giá cổ phiếu). Công ty cũng ghi có vào tài khoản Vốn thanh toán bổ sung cho số tiền thu được vượt quá mệnh giá. 

Trong ví dụ này, số tiền thu được bằng 1.400.000 USD (100.000 cổ phiếu * (giá trị thị trường là 15 USD – mệnh giá là 1 USD).

  • Nợ: Tiền mặt $1.500.000
  • Tín dụng: Cổ phiếu phổ thông 100.000 USD
  • Tín dụng: Vốn thanh toán bổ sung $1.400.000

Điều đó có nghĩa là gì nếu một cổ phiếu không có mệnh giá?

Nếu một cổ phiếu không có mệnh giá, nghĩa là công ty chưa ấn định giá trị tối thiểu cho cổ phiếu của mình (thường là tại thời điểm phát hành). Ở một số tiểu bang, công ty có thể không bị yêu cầu về mặt pháp lý để ấn định giá trị này. Công ty phải ghi rõ giá trị không có mệnh giá của cổ phiếu trên giấy chứng nhận cổ phiếu hoặc trong các điều khoản thành lập công ty. Giá trị này không ảnh hưởng đến giá trị thị trường của cổ phiếu.

Ảnh hưởng của giá trị không có mệnh giá là gì?

Một công ty có thể phát hành cổ phiếu không mệnh giá để tránh trường hợp giá cổ phiếu của nó giảm xuống dưới mệnh giá và phải chịu trách nhiệm với các cổ đông. Hãy tưởng tượng một tình huống trong đó một cổ phiếu có mệnh giá là 1 đô la và giá trị thị trường là 0,75 đô la. Bởi vì giá trị thị trường đang giao dịch dưới mệnh giá nên công ty có khoản nợ đối với các cổ đông là 0,25 USD.

Bằng cách phát hành cổ phiếu không mệnh giá, công ty từ bỏ mọi quyết định về giá trị của cổ phiếu. Do đó, công ty sẽ không có nghĩa vụ trong tương lai đối với các cổ đông nếu giá cổ phiếu giảm.

Cổ phiếu có thể được phát hành dưới mệnh giá không?

Cổ phiếu có thể được phát hành dưới mệnh giá, mặc dù làm như vậy sẽ không có lợi cho công ty phát hành. Công ty sẽ phải chịu trách nhiệm trên mỗi cổ phiếu đối với các cổ đông về chênh lệch giữa mệnh giá cổ phiếu và giá phát hành.

Tại sao Mệnh giá lại quan trọng đối với cổ đông?

Mệnh giá thường có ít hoặc không ảnh hưởng tới các cổ đông. Một trong những trường hợp duy nhất mà cổ đông có thể bị ảnh hưởng bởi mệnh giá là nếu công ty phát hành phá sản và cổ đông mua lại cổ phiếu với giá dưới mệnh giá. Trong trường hợp hiếm hoi này, con nợ có thể truy đuổi hợp pháp những cổ đông này vì sự khác biệt giữa số tiền họ trả cho cổ phiếu và mệnh giá.

Cùng Reviewsantot cập nhật các thông tin trên thị trường đầu tư tại các trang tin của Reviewsantot: